ĐIỂM SÁCH
Vốn
xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ
Phan Văn Kiền (Tr 136-138)
(Hai
công trình: "Vốn xã hội trong phát
triển nguồn nhân lực trẻ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước", Nguyễn Tuấn Anh, Nguyễn Hồi Loan, Nguyễn Thị Kim Hoa đồng chủ
biên. 2016. Nhà xuất bản ĐHQG Hà Nội. ISBN: 978-604-62-6685-3 và "Vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân
lực trẻ từ những hướng tiếp cận khác nhau". Nguyễn Thị Kim Hoa, Nguyễn
Hồi Loan, Nguyễn Tuấn Anh đồng chủ biên. 2016. Nhà xuất bản ĐHQG Hà Nội. ISBN:
978-604-62-6683-9).
Hai
cuốn sách không dày nhưng đề cập tới một vấn đề được thảo luận nhiều và
"nóng" trong các ngành khoa học xã hội hiện nay: Vốn xã hội. Đặc
biệt, tập thể tác giả đã dùng cái nhìn đa chiều để tiếp cận vấn đề và trình bày
chúng dưới những quy chiếu hết sức khoa học và lớp lang.
Có
thể hình dung hai cuốn sách này giống như hai tập sách trong một bộ sách chỉnh
thể về nội dung “vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ”. Cuốn thứ nhất
với nhan đề “Vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Cuốn thứ hai “Vốn xã hội trong phát
triển nguồn nhân lực trẻ từ những hướng tiếp cận khác nhau”.
Cuốn
thứ nhất với 4 chương (181 trang) và một chương kết luận với kết cấu
theo mô típ của một công trình nghiên cứu. Cuốn sách đi từ những vấn
đề cơ bản, nền tảng về nguồn nhân lực trẻ và vốn xã hội đến những
vấn đề chuyên sâu về vốn xã hội với nhân lực trẻ như tuyển dụng,
đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm nhân lực trẻ. Chương 3 và 4
của cuốn sách là hai chương có giá trị tham khảo tốt nhất trong cuốn
sách.
Cuốn
thứ hai dưới dạng là một tập hợp các nghiên cứu cùng chủ đề của
nhiều tác giả với 3 phần (252 trang). Đúng như nhan đề của cuốn sách,
các tác giả đã đưa ra nhiều hướng tiếp cận khác nhau về vốn xã hội
trong việc phát triển nguồn nhân lực trẻ. Từ những vấn đề mang tính
lý thuyết đến các nghiên cứu thực nghiệm cụ thể, từ những nghiên
cứu tổng quát đến các nghiên cứu trên từng địa phương, lĩnh vực cụ
thể, các tác giả đã cố gắng để có một cách nhìn tổng quan về vấn
đề nghiên cứu.
Cả
hai cuốn sách đều là những tài liệu tham khảo tốt cho quá trình nghiên cứu về
vốn xã hội nói chung và vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ nói
riêng.
Đóng
góp lớn nhất của hai cuốn sách, theo chúng tôi, là đã tiếp cận đa chiều về vốn
xã hội cũng như vốn xã hội với phát triển nguồn nhân lực trẻ để đưa ra những
kết luận, khuyến nghị giàu sức thuyết phục và có tính khoa học cao. Hai công
trình đã cố gắng tiếp cận nhiều lĩnh vực cũng như nhiều khu vực địa lý khác
nhau để đi đến những kết luận cho vấn đề nghiên cứu.
Tuy
nhiên, chính việc tiếp cận đa chiều đó cũng là hạn chế của hai công trình. Bởi
trong nghiên cứu, tính đại diện và chọn lọc, dù ngẫu nhiên và khách quan đến
đâu, khó có thể khái quát hết được cho mọi mặt của vấn đề nghiên cứu. Vì vậy,
càng mở rộng góc tiếp cận thì càng cần độ khái quát cao hơn. Trong nghiên cứu,
tính khái quát không hẳn lúc nào cũng tốt.
Trong
cuốn thứ nhất, các tác giả mới chỉ tiếp cận đối tượng "nguồn nhân lực
trẻ" giới hạn trong khu vực nhà nước, trong khi đó, tiếp cận "vốn xã
hội" với nguồn nhân lực trẻ thì ở lĩnh vực ngoài nhà nước mới là khu vực
đặc sắc và có nhiều vấn đề cần nghiên cứu hơn.
Không
chỉ vậy, cả trong cách tiếp cận vấn đề, cuốn sách mới dừng lại ở góc tiếp cận
từ tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt, bổ nhiệm nhân lực trẻ. Nếu có thêm
góc tiếp cận từ nội tại nguồn nhân lực trẻ thì góc nhìn sẽ đa diện và khách
quan hơn. Cố nhiên, chúng tôi hiểu hạn chế này là do đối tượng nghiên cứu của
công trình là nhân lực trẻ trong khu vực nhà nước.
Cuốn
thứ hai, "Vốn xã hội trong phát triển nguồn nhân lực trẻ từ những hướng
tiếp cận khác nhau", các tác giả đã cố gắng tiếp cận đa chiều về lĩnh vực
cũng như địa lý để đưa ra cái nhìn khách quan cho vấn đề nghiên cứu. Tuy nhiên,
các địa phương trong công trình đang tập trung chủ yếu vào các tính phía Bắc và
Bắc Trung bộ, chính xác hơn là từ Nghệ An trở ra. Công trình vắng bóng hẳn khu
vực Trung Trung bộ, Nam Trung bộ và Nam bộ, vốn là những khu vực có quá trình
phát triển nguồn nhân lực trẻ hết sức đa dạng trong cả trình độ, quan điểm và
hiện trạng phát triển bản thân.
Ở
các lĩnh vực, công trình cũng mới dừng lại ở một số góc tiếp cận khá hạn chế
như nhân lực nữ, cựu sinh viên… Sẽ trọn vẹn hơn nếu công trình mở rộng được hơn
đối tượng nghiên cứu.
Tuy
nhiên, chúng tôi hiểu rằng những nhược điểm trên của hai công trình nằm ở bản
thân vấn đề nghiên cứu quá lớn. Dù hai công trình là kết quả của một đề tài
nghiên cứu cấp nhà nước về vốn xã hội, lại chỉ khu biệt trong một đối tượng là
nguồn nhân lực trẻ khu vực nhà nước nhưng vấn đề vốn xã hội là một vấn đề không
thể giải quyết chỉ trong một vài công trình và ở một số thời điểm nhất định.
Những
giới hạn về góc tiếp cận mà công trình chọn lựa đã giúp cho kết quả nghiên cứu
sát hơn, sâu hơn và có giá trị thực tiễn hơn. Ngay cả với những kết luận tưởng
như là sáo mòn, chẳng hạn: "Nhiều điểm yếu của nguồn nhân lực, trong đó có
nguồn nhân lực trẻ là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo còn quá thấp, tỷ lệ lao
động có tay nghề cao còn ít, nhất là năng suất lao động của người lao động còn
quá thấp trong sự so sánh với các nước trong khu vực" (trang 159) đều dựa
trên những luận cứ, luận điểm, khảo sát chắc chắn và có độ tin cậy cao.
Comments
Post a Comment