ĐIỂM SÁCH
Tiếp biến và
hội nhập văn hóa ở Việt Nam
Nguyễn Văn
Kim (chủ biên). 2016. Nhà xuất bản ĐHQG Hà Nội. (ISBN 978-604-62-6485-9)
Nguyễn Mạnh
Dũng (Tr 737-739)
Văn hóa và giao lưu, tiếp xúc, hội nhập, tiếp biến văn hóa… là
những vấn đề có tính chất toàn cầu hiện nay. Đối với Việt Nam, kể từ khi tiến
hành công cuộc đổi mới, văn hóa và các vấn đề liên quan đến giữ gìn, bảo tồn,
phát huy văn hóa đã và đang trở thành chủ đề trọng tâm, được toàn xã hội, các
nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu. Tuy vậy, trên phương diện nghiên cứu, vẫn
chưa thấy nhiều khảo cứu hệ thống cũng như những chuyên khảo về từng chiều
cạnh của sự quá trình tiếp biến, quá trình tiếp biến và hội nhập văn hóa.
Có thể thấy, trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá ngày
càng diễn ra mạnh mẽ, văn hoá Việt Nam tuy đón nhận được nhiều cơ hội, điều
kiện phát triển mới nhưng mặt khác cũng phải đối diện với không ít thách thức,
khó khăn. Là một thực thể gắn bó với đời sống chính trị, xã hội Việt Nam, văn hóa
đã đồng hành cùng dân tộc, gắn bó mật thiết với những chuyển biến chung của dân
tộc và có những đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế-xã hội, bảo vệ quốc
phòng, an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế
của đất nước ta.
Tuy nhiên,
thực tế cũng cho thấy, các giá trị văn hóa truyền thống ngày nay cũng chịu
nhiều thách thức trước những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường, của xu
thế lớn mang
tính toàn cầu. Hơn bao giờ hết việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa lại
được coi là một nhiệm vụ thiết yếu gắn với các yêu cầu, mục tiêu phát triển bền
vững của đất nước như hiện nay. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đấu
tranh bảo vệ chủ quyền đất nước cũng luôn gắn liền với việc bảo vệ an ninh, bảo
tồn bản sắc văn hóa, xây dựng con người Việt Nam giàu lý trí và tình cảm, thấm
đậm chủ nghĩa nhân văn và tinh thần yêu nước.
Các vấn đề
nêu ra trên đây là những mục tiêu cơ bản, nhiệm vụ cấp bách hiện nay trong việc
nghiên cứu về quá trình
tiếp biến và hội nhập văn hóa của Việt Nam. Trong bối cảnh của một xã hội thông
tin, hội nhập và toàn cầu hóa, việc đề ra các định hướng phát triển, đáp ứng
khả năng, nhu cầu thụ hưởng văn hóa... việc triển khai công tác nghiên cứu,
tiếp thu kinh nghiệm của một số quốc gia khu vực và thế giới để từ đó có được
nhận thức đúng đắn, chính sách quản lý, phát triển văn hóa phù hợp luôn là một
yêu cầu bức thiết.
Công trình
nghiên cứu “Tiếp biến và hội nhập văn hóa ở Việt Nam” do GS.TS. Nguyễn Văn Kim chủ biên
tập trung nghiên cứu, góp phần làm sáng tỏ những nội dung sau: Thứ nhất, làm rõ các vấn đề lý luận về tiếp biến và hội nhập văn hóa; Thứ hai, phân tích các bước chuyển, cơ sở, cách thức ứng đối và quá trình tiếp biến, hội nhập văn
hóa trong lịch sử Việt Nam;
Thứ ba, đánh giá
thực trạng, kinh nghiệm quốc tế về tác động của tiếp biến và hội nhập văn hóa
đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội, xây dựng nhân cách con người Việt Nam
hiện nay; Thứ tư, đề xuất
phương hướng, giải pháp, kiến nghị nhằm phát huy tính tích cực, hạn chế những
tác động tiêu cực của quá trình tiếp biến và hội nhập văn hóa đến sự phát triển
bền vững của đất nước.
Có thể khái
quát các nội dung trên thành ba chủ điểm lớn vừa mang
tính chất khuyến nghị của công
trình nghiên cứu như sau:
- Văn hóa trong chiến lược tổng thể xây dựng và phát triển
văn hóa, con người Việt Nam
Việt Nam đã
xác định lộ trình và thực hiện những giải pháp căn bản cho quá trình phát triển
văn hóa đó là: Hội nhập để tiếp biến và tiếp biến để tiếp tục hội nhập ở một
mức độ cao hơn. Hội nhập kinh tế là bước đi đầu tiên, sau đó đến hội nhập văn
hóa và hiện nay đang chuẩn bị cho việc hội nhập chính trị trên cơ sở chuẩn bị
luận cứ và các giải pháp khả thi để đổi mới hệ thống chính trị, hướng tới xây
dựng một nhà nước văn minh, hiện đại.
Mối quan hệ
khăng khít giữa xây dựng văn hóa với xây dựng con người đã được nhận thức ngày
một sâu sắc trong tư duy phát triển của Việt Nam. Con người là trung tâm, động
lực, nhân tố quyết định cho sự bảo tồn, truyền bá và sáng tạo văn hóa. Việc xây
dựng thành công những mẫu hình con người mới, có tri thức, sáng tạo, tình cảm,
nhân cách, lối sống đẹp là nhiệm vụ trọng tâm của văn hóa. Cần có chiến lược và
hệ giải pháp thiết thực, khả thi để xây dựng con người, phát huy nhân cách con
người Việt Nam trong xã hội hiện đại. Định hướng cho chiến lược và tiếp biến
văn hóa là đề ra đường hướng chính tiếp cận tới các mục tiêu có giá trị lâu dài
mà Việt Nam vươn tới trong
chiến lược văn hóa, giáo dục là đào luyện nên những con người có năng lực, phẩm
chất, tư duy của công dân toàn cầu.
- Công nghiệp văn hóa,
thị trường văn hóa và
chuỗi các sản phẩm văn hóa trên thị trường văn hóa khu vực và thế giới
Văn hóa đã
và đang trở thành nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế-xã hội. Đứng
trước những yêu cầu phát triển mới, để hướng tới xây dựng Nền kinh tế tri thức trước hết
Việt Nam cần tập trung nguồn lực để xây dựng
Nền kinh tế văn hoá mà trọng tâm là ngành Công nghiệp văn hóa. Đó là bước chuẩn bị quan trọng để hướng tới
phát triển Nền kinh tế tri thức giàu
đậm hàm lượng trí tuệ và chất nhân văn. Để xây dựng và phát triển văn hóa, Việt
Nam cần thực sự coi văn hóa là động lực, nhân tố bảo đảm cho sự phát triển bền
vững; cần thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của Công nghiệp văn hóa, là ngành có mối liên hệ chặt chẽ với Công nghiệp sáng tạo trong xã hội hiện
đại.
Những người
làm công tác quản lý văn hóa đang hướng đến một tư duy mang tính khai mở nhằm
xây dựng một Thị trường văn hóa nhân văn,
hiện đại trên cơ sở phát triển chuỗi
các sản phẩm của Công nghiệp văn hóa. Trong quá trình phát huy thế mạnh của
Thị trường văn hóa và Công nghiệp văn hóa cũng cần sớm tính
đến việc xây dựng một Nền văn minh thương
nghiệp (thương đạo) và Văn hóa doanh
nhân. Ở đó, triết lý kinh doanh, đạo đức nghề nghiệp, tính trung thực, tư
tưởng nhân văn và văn hóa kinh doanh được coi trọng, tôn vinh. Đội ngũ doanh
nhân cần trở thành các Doanh nhân văn hóa,
một lực lượng đông đảo, mạnh mẽ trong việc thực hiện Chiến lược ngoại giao nhân dân và trong việc đẩy mạnh xã hội hóa
các nguồn lực, nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp và xã hội. Có thể coi các
doanh nhân là một trong những Lực lượng
văn hóa và chính lực lượng văn hóa này sẽ tạo nên sức sản xuất văn hóa có ý nghĩa quan trọng trong đời sống tinh thần của một quốc
gia.
- Công tác quản lý, tạo dựng thiết chế, khuyến khích,
thúc đẩy sự nghiệp phát triển, phát huy và sáng tạo văn hóa
Trong tư duy
chiến lược mới, giữa việc bảo vệ lợi ích quốc gia về chính trị, an ninh, kinh
tế với lợi ích quốc gia về văn hóa và
coi đó như một bộ phận hợp thành trong lợi
ích tổng thể của đất nước. Theo đó, việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa
dân tộc trong cộng đồng văn hóa thế giới phải được coi là một nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Trong sự
phát triển của Việt Nam hiện nay, văn hóa không chỉ đồng hành với phát triển
chung của dân tộc mà trên nhiều phương diện, văn hóa phải giữ vai trò tiên phong trong sự phát triển của đất nước. Công
tác quản lý văn hóa đã và đang tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện
tốt hơn nữa nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc kết hợp với
với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa thế giới. Mặt khác, chính nhu cầu giao tiếp,
thụ hưởng văn hóa của thời đại toàn cầu hóa mà văn hóa đã trở thành nhân tố
kích hoạt cho sự phát triển của nhiều lĩnh vực kinh doanh.
Bên cạnh
những thành tựu đạt được, hạn chế lớn nhất của sự nghiệp xây dựng và quản lý
văn hóa Việt Nam trong thời gian qua là chưa có cơ chế phối hợp cấp quốc gia để
tổ chức các kế hoạch, hoạt động văn hóa lớn và bố trí nguồn lực đầu tư thỏa đáng cho sự nghiệp phát triển, quảng bá giá
trị văn hóa... Nhận thức rõ hạn chế đó, Đảng và Nhà nước đã quan tâm tăng cường
bộ máy tổ chức, ban hành những văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh hoạt động của
ngành Văn hóa, đề
cao vai trò của các thiết chế văn hóa, phát huy vai trò của các phương tiện
thông tin, truyền thông đại chúng với những phương thức hoạt động mới, hiệu
quả. Văn hóa không chỉ có ý nghĩa định hướng mà còn là động lực thúc đẩy sự
phát triển của kinh tế-xã hội đồng
thời góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh đất nước.
Comments
Post a Comment